Luận thuyết của Đácuyn và Ăngghen đã giúp ta hoàn toàn phá bỏ sự bó buộc của quan niệm tôn giáo, khiến cho, trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, việc tìm kiếm nguồn gốc bí ẩn của con người trong hơn một trăm năm qua đã không ngừng tiến tới.
Trong đó, có mấy suy luận dưới đây được sự tiếp nhận rộng rãi nhất về nguồn gốc loài người:
Một là, loài người do loài động vật sinh trưởng tiến hóa mà thành.
Năm 1960 giáo sư Anh quốc, huân tước Erixớt Hađa, đã đưa ra một giả thuyết mới. Ông cho rằng, thời kỳ hóa thạch trống rỗng (cách ngày nay 4 triệu năm đến 8 triệu năm tư liệu hóa thạch hoàn toàn không có gì) liên quan đến to tiên loài người, sinh vật chỉ sống dưới biển, không sống trên mặt đất. Trong lịch sử tiến hóa của loài người, còn để lại rất nhiều dấu vết của giai đoạn vượn biển mấy triệu năm trên cơ thể con người cho đến ngày nay. Đó là những đặc trưng của sinh lí học. giải phẫu, mà những đặc trưng đó không có trên cơ thể các loài linh trưởng sống trên đất, nhưng nó lại có trên cơ thể các loài động vật có vú sống ở biển như hải báo, cá heo. Ví dụ, tất cả các loài động vật linh trưởng trên mặt đất đều có bộ lông dày khắp phần da, chỉ riêng có loài người và thú biển là để trần bộ da. Các loài linh trưởng trên mặt đất đều không có lớp mỡ dưới da, chỉ có người và thú biển là có lớp mõ dày dưới da. Vị trí tóc của thai nhi người cũng khác các loài linh, trưởng trên mặt đất, mà chỉ giống thai nhi của loài thú biển. Nước mắt do tuyến lệ của loài người tiết ra có thành phần muối, giống như đặc trưng của loài thú biển, trong khi các loài linh trưởng trên mặt đất tuyệt nhiên không có. Giáo sư Hađa chỉ rõ: Lịch sử địa chất cho thấy, 4 triệu đến 8 triệu năm trước cả một vùng rộng lớn ở miền Đông và miền Bắc châu Phi đã từng chìm ngập dưới biển. Nước biển đã ngăn cách cuộc sống của đàn vượn ở nơi đó, khiến cho một bộ phận của chúng xuống sinh sống ở dưới biển, rồi tiến hóa thành thú biển. Mấy triệu năm sau đó, nước biển rút đi. Loài linh trưởng biển đã sống quen với cuộc sống dưới nước, rồi lại quay lên mặt đất sinh sống và trở thành tổ tiên loài người. Thú biển qua tiến hóa có 2 chân với dáng đứng thẳng, không chế được hô hấp, giải phóng được đôi tay, tạo điều kiện cho dáng đi thẳng, và những bước tiên hóa lớn như phát triển ngôn ngữ giao lưu. Những điều đó khiến cho chúng như được trời giúp sức, vượt qua các loài vượn khác, tiến hóa trở thành động vật cao cấp nhất, trí tuệ nhất trên Trái Đất.
Hai là, loài người được tiến hóa từ những sinh vật biển khơi.
Đem những đặc trưng sinh lí của các loài động vật khác nhau mà so sánh, có thể nhận ra mối quan hệ gần xa giữa chúng. Đó là phương pháp nghiên cứu so sánh sinh lý học. Giáo sư sinh vật học Eibirigơ. Đantông của trường đại học Menbơn Oxtrâylia đã nghiên cứu cơ chế sinh lý của việc khống chế cân bằng lượng muối trong cơ thể giữa người và các loài động vật có vú khác. Ông phát hiện thấy, về phương diện đọ, loài người khác với các động vật có vú sinh sống trên mặt đất, mà tương tự như của loài thú biển.